Marie-Joseph Paul Yves Roch Gilbert du Motier (
6 tháng 9 năm
1757 –
20 tháng 5 năm
1834), thường được gọi
Hầu tước La Fayette, là một quân nhân, nhà quý tộc người
Pháp từng tham gia
Cách mạng Hoa Kỳ với hàm
trung tướng và là chỉ huy lực lượng
Vệ binh quốc gia trong thời kỳ
Cách mạng Pháp.Tới
Hoa Kỳ năm 1777 khi nước Pháp còn chưa tham dự vào cuộc chiến, La Fayette phục vụ trong
Quân đội Lục địa dưới quyền
George Washington.
Trận Brandywine, trận đánh đầu tiên La Fayette tham gia, tuy bị thương nhưng ông vẫn chỉ huy thành công cuộc rút quân. Sau khi góp phần vào chiến thắng
Monmouth, La Fayette tới
Boston dàn xếp cuộc nổi loạn của những cư dân thành phố. Trở về
Paris năm 1779, ông thuyết phục triều đình Pháp ủng hộ mạnh mẽ hơn cho
Hoa Kỳ. Năm 1780, La Fayette – biểu tượng của mối quan hệ Pháp–Hoa Kỳ – quay lại với cuộc chiến. Tại
Yorktown, ông ghìm chân tướng
Charles Cornwallis trong khi Washington và Jean-Baptiste Donatien de Vimeur chuẩn bị cho trận đánh quyết định kết thúc chiến tranh.Trở về nước Pháp, La Fayette tham dự
Hội nghị các đẳng cấp vào tháng 5 năm 1789. Ông tham gia soạn thảo bản
Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền cùng với
Abbé Sieyès (có tham khảo ý kiến của
Thomas Jefferson) và tham gia
Hạ viện với vai trò Phó chủ tịch. Trong suốt thời kỳ
Cách mạng Pháp, trên vị trí Tổng tư lệnh của Vệ binh quốc gia, La Fayette cố gắng duy trì trật tự và cuối cùng lâm vào thế đối đầu với phái
Jacobin. Những hành động bảo vệ
nhà vua cùng hoàng gia khiến ông bị kết tội vào tháng 8 năm 1792, thời điểm mà phái cực đoan quá lớn mạnh. La Fayette quyết định bỏ trốn sang Mỹ nhưng bị quân
Áo bắt tại
Hà Lan. Sau 5 năm giam giữ, ông được trả tự do và đến năm 1799 quay trở về Pháp. Năm 1830, trong cuộc
Cách mạng tháng Bảy, một lần nữa, La Fayette lại giữ vai trò chỉ huy Vệ binh quốc gia và bằng sự ủng hộ của mình góp phần đưa
Louis-Philippe I lên ngôi.Do những đóng góp và vai trò trong ba cuộc cách mạng, La Fayette được vinh danh ở
Pháp và cả
Hoa Kỳ, nơi rất nhiều thành phố, thị trấn mang tên La Fayette.